Tổng Hợp

Vi phạm hành chính là gì? Vi phạm pháp luật hành chính

Vi phạm hành chính là hành vi mà tổ chức, cá nhân cố ý hoặc vô ý không thực hiện hoặc không tuân thủ các quy định của pháp luật quản lý nhà nước và chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. chấp thuận.

Các quy định bất hợp pháp hành chính

1. Định nghĩa vi phạm hành chính

2. các đặc điểm của vi phạm hành chính

3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính

4. Đối tượng vi phạm hành chính

5. Việc xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng còn phức tạp

vi-pham-hanh-chinh-la-gi-1-a10-thanglongcitydaimo-vn

Định nghĩa vi phạm hành chính

Vi phạm pháp luật hành chính là hành vi vi phạm pháp luật tương đối phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy vi phạm hành chính ít gây nguy hại cho xã hội hơn tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, lợi ích chung của toàn xã hội, nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời, là nguyên nhân sâu xa của tội phạm trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, việc xử lý vi phạm hành chính luôn được xã hội quan tâm. Cho đến nay, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh và xử lý vi phạm hành chính, trong đó có “Quy chế xử phạt vi phạm hành chính” do chính phủ ban hành tháng 5 năm 1977 và “Quy định xử phạt vi phạm hành chính” được ban hành vào tháng mười một. 30/03/1989, 06/07/1995 “Quy chế xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hành chính”, 02/07/2002 “Quy chế xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hành chính”. Nhiều quy định của Pháp lệnh này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Quy định số 31/2007 / PL-UBTVQH11 ngày 08 tháng 3 năm 2007 thành Quy chế bất thường hành chính và một số quy định của Quy định số 04/2008 / UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Quy chế xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Theo đó, gián tiếp:

Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định quản lý nhà nước do cố ý hoặc vô ý mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 1 Quy định về Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hành chính năm 2002 cũng gián tiếp định nghĩa các hành vi vi phạm pháp luật hành chính:

Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của Luật Hành chính. hợp pháp”.

Mặc dù có sự khác nhau về từ ngữ nhưng các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đều thống nhất về đặc điểm cơ bản của hành vi vi phạm đó. Tóm tắt những dấu hiệu cơ bản này, khoản đầu tiên của Điều 2 “Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính” năm 2012 trực tiếp đưa ra định nghĩa về hành vi vi phạm pháp luật hành chính, theo đó:

“Vi phạm hành chính là hành vi phạm tội của cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật quản lý nhà nước nhưng không phải là hành vi phạm tội và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.”

Đặc điểm của vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính có các đặc điểm sau:

1) Chủ thể của hành vi này phải là tổ chức, cá nhân có thể chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của Luật hành chính. Tổ chức vi phạm hành chính có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hoặc lực lượng vũ trang. Cá nhân bị xử lý vi phạm hành chính phải không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đủ tuổi theo quy định của pháp luật. Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng có thể bị vi phạm hành chính theo pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;

(2) Hành vi của tổ chức, cá nhân là vi phạm quản lý nhà nước, nghĩa là tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc không đáp ứng yêu cầu của pháp luật quản lý nhà nước. ;

3) Vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân phải có lỗi, cố ý hoặc vô ý. Chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật hành chính thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính trong tình trạng hoàn toàn nhận thức được hành vi trái pháp luật hành chính nhưng vẫn cố tình thực hiện hoặc quá tự tin, buông lỏng hành vi dẫn đến thực hiện hành vi đó. Luật quản lý nhà nước;

4) Hành vi trái pháp luật của tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước không cấu thành tội phạm, tức là mức độ nguy hại cho xã hội thấp hơn tội phạm. Đây là ký hiệu quan trọng để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm. Việc đánh giá mức độ nguy hiểm của vi phạm hành chính phải dựa trên các yếu tố như mức độ thiệt hại cho xã hội, tính chất và mức độ của lỗi, mức độ quan trọng của đối tượng được bảo vệ, nhân thân của người phạm tội. …

5) Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật quản lý nhà nước phải chịu sự điều chỉnh và trừng trị của pháp luật hành chính. Chỉ có Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và chính phủ mới có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính. Quốc hội quy định các hành vi vi phạm hành chính, các hình thức và biện pháp trong các văn bản pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định các hành vi vi phạm hành chính, các hình thức và biện pháp trong các quy định (trong đó, “Quy định về xử lý vi phạm hành chính” là văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm hành chính và giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của hành chính. vi phạm). Chính phủ quy định các hình thức, biện pháp xử lý vi phạm hành chính dưới dạng nghị định.

3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính

3.1. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật.

Vi phạm hành chính là vi phạm pháp luật và có hại cho xã hội. Tác hại của vi phạm hành chính đối với xã hội thể hiện ở chỗ vi phạm hành chính làm mất trật tự xã hội do nhà nước thiết lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, chính quyền, xã hội và nhà nước. Việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm hành chính sẽ giúp xác định được các tình tiết vi phạm có liên quan để xử lý đúng đắn hoặc ngăn chặn tác động xấu của hành vi vi phạm. Ví dụ, để thiết lập trật tự giao thông, nhà nước quy định các quy tắc giao thông, như quy tắc sử dụng làn đường, quy tắc vượt, quy tắc chuyển hướng, quy tắc đỗ xe, quy tắc đỗ xe, quy tắc chở người, chở hàng, v.v. Giao thông sẽ ổn định, trật tự và an toàn. Mọi hành vi vi phạm hành chính giao thông đều gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn giao thông, gây mất an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông. Trên thực tế, có rất nhiều vi phạm không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, để lại hậu quả nặng nề. Pháp luật có những quy định phản ánh trực tiếp nguyên tắc này, chẳng hạn để xác minh các tình tiết liên quan đến vi phạm hành chính, quản đốc có thể quyết định khám người hoặc khám phương tiện, phương tiện, vật dụng khi xét thấy cần thiết. Trong trường hợp bình thường, việc khám xét người, phương tiện, vật dụng cần phải có quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo tính kịp thời, pháp luật cho phép khám xét mà không cần quyết định bằng văn bản, nhưng nếu có lý do cho rằng đồ vật, tang vật, phương tiện, tài liệu sẽ bị tiêu hủy nếu không tiến hành khám xét ngay. Xua tan, tiêu diệt.

Khi người có thẩm quyền phát hiện vi phạm hành chính thì xử lý nghiêm để bảo đảm giá trị của việc trừng phạt người phạm tội, đồng thời để giáo dục, phổ biến người phạm tội. Xử lý kém hoặc quá nhẹ có thể dẫn đến coi thường pháp luật, và xử lý quá nặng tay có thể dẫn đến sự thất vọng cho người bị trừng phạt. Cả hai khả năng này đều có thể ảnh hưởng xấu đến nhận thức pháp luật của người dân.

Ngoài ra, còn có nhiều vi phạm hành chính gây thiệt hại thực tế. Ví dụ, hành động thải hoặc thải nước và khí với các thông số môi trường có hại có thể gây ô nhiễm đất, nước và không khí. Sự ô nhiễm này sẽ gây hại cho con người, động vật và thực vật. Vì vậy, đối với vi phạm hành chính mà gây thiệt hại thực tế thì ngoài việc xử phạt người phạm tội bằng hình thức phạt tiền, cần phải áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả vi phạm hành chính trước khi vi phạm hành chính được thực hiện. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Nếu không khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hành chính, những hậu quả này có thể ảnh hưởng rất lâu dài, như trường hợp Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải, ước tính phải mất 10 15 năm nếu cần thiết để khôi phục lại dòng sông như ban đầu. nêu các biện pháp tích cực được thực hiện.

3.2 Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là nhanh chóng, công khai, khách quan, công khai, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật.

Thứ nhất, việc xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện nhanh chóng. Vi phạm hành chính thường được coi là ít nguy hiểm hơn tội phạm nên việc xử phạt vi phạm hành chính thường không mất nhiều thời gian mà vẫn có thể chính xác và hợp pháp. Ngoài ra, khi xử phạt vi phạm hành chính, việc thực hiện một số biện pháp bắt buộc do pháp luật quy định có thể ảnh hưởng đến quyền và hoạt động bình thường của người bị xử phạt. Ngoài ra, như đã đề cập trước đó, các chế tài xử lý kịp thời sẽ có thể ngăn chặn kịp thời tác động tiêu cực của vi phạm hành chính. Nguyên tắc này được thể hiện trong hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Trong quy trình xử phạt không lập biên bản, quyết định hành chính được thực hiện khi người giám sát phát hiện ra vi phạm. Trong thủ tục xử phạt có lập biên bản, thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói chung là 7 ngày, nếu pháp luật có quy định giải trình hoặc không giải trình nhưng tình hình phức tạp thì thời hạn là 30 ngày, kể từ ngày của việc nộp đơn vi phạm hành chính. Với thời hạn như vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính cần phải nhanh chóng, vì nếu quá thời hạn, quản đốc sẽ không ra quyết định xử phạt nữa.

Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính cần công khai, khách quan. Hiện nay, trừ những vụ việc liên quan đến bí mật nhà nước, việc tiết lộ đã trở thành nguyên tắc hoạt động chung của nhà nước. Nhiều hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính phản ánh đúng nguyên tắc này, ví dụ, biên bản vi phạm hành chính phải có chữ ký của người vi phạm hoặc người đại diện, nếu người vi phạm không có mặt thì phải có chữ ký của đại diện chính quyền địa phương. Xảy ra vi phạm; vi phạm hành chính gây hậu quả lớn, ảnh hưởng xấu đến xã hội cần bị xử phạt công khai; quy định về khám người, khám vật chứng, nơi cất giấu phương tiện vi phạm hành chính, khám phương tiện cũng cần chú ý đến việc công bố quyết định khám xét và sự có mặt của người chứng kiến, Lập biên bản khám xét … Việc kê khai dễ kiểm soát, hạn chế sai sót của việc xử phạt vi phạm hành chính, khách quan đạt được mức xử phạt chính xác, đúng người, đúng tội.

Thứ ba là xử phạt vi phạm hành chính phải trong phạm vi thẩm quyền, đảm bảo công bằng, đúng quy định của pháp luật. Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước để áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội nên chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền xử phạt vi phạm hành chính, và chỉ trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ ai có quyền xử phạt, hành vi vi phạm nào được xử phạt và mức độ, mức độ của các biện pháp cưỡng chế. Thẩm quyền xử phạt đúng sẽ tạo ra các chế tài hài hòa, không chồng chéo, không bỏ sót, thuận tiện và chính xác. Việc xử phạt cũng phải đảm bảo công bằng, xử phạt tất cả người vi phạm, mức phạt như nhau đối với cùng một hành vi vi phạm, có tính đến yếu tố, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của người vi phạm, vi phạm pháp luật trong giới hạn do pháp luật quy định. Ví dụ, sau khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu cá nhân gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế, đột xuất do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo, tai nạn … thì bị phạt tiền trên 3.000.000 đồng. người giám sát có thể Xem xét miễn tiền phạt. .

3.3- Xử phạt vi phạm hành chính tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, đối tượng vi phạm và các trường hợp nhẹ hơn.

Hành vi vi phạm hành chính nào là nguy hiểm cho xã hội thì pháp luật quy định các hình thức và mức phạt phù hợp tùy theo mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hại của hành vi vi phạm pháp luật hành chính đối với xã hội phụ thuộc vào bản thân hành vi, mức độ nghiêm trọng của hậu quả, đối tượng phạm tội là ai và nhiều yếu tố khác. Có giá trị răn đe và phòng ngừa cao, khi xử phạt phải xác định hình thức, mức độ xử phạt theo tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng xử phạt, hành vi vi phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

3.4 Nguyên tắc vi phạm hành chính chỉ bị xử lý vi phạm hành chính do pháp luật quy định; vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; cùng một hành vi vi phạm hành chính được thực hiện bởi nhiều người thì mỗi người vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính nhiều lần hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt liên tiếp.

Hành vi vi phạm pháp luật nhìn chung có hai dấu hiệu: dấu hiệu nội dung nghĩa là hành vi đó gây hại cho xã hội; dấu hiệu chính thức có nghĩa là một hành vi nhất định phải được quy định là hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, pháp luật quy định người khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử lý khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật nhưng pháp luật không quy định hành vi không thực hiện quyết định xử lý khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật là vi phạm hành chính thì không cá nhân nào bị xử phạt. . Hoặc tổ chức khiếu nại nếu họ không thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại. Nguyên tắc này thể hiện quan điểm chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới có thẩm quyền xác định hành vi đó có phải là tội phạm hay không và trong trường hợp hành vi đó gây nguy hiểm cho xã hội, nếu vì lý do nào đó mà pháp luật chưa coi hành vi đó là tội phạm hình sự. , vi phạm hành chính, không ai có thể tạm giữ cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm hành chính về hành vi. Nếu pháp luật quy định đây là hành vi vi phạm pháp luật hành chính thì cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính một lần đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Nếu phát hiện một cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần hoặc nhiều cá nhân, tổ chức cùng vi phạm thì xử phạt sơ thẩm từng cá nhân, tổ chức. Vẫn là vi phạm hành chính chỉ được xử phạt một lần.

3.5 Nguyên tắc người có năng lực xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm chứng minh; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.

Để xử phạt cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, người có khả năng xử phạt phải chứng minh được cá nhân, tổ chức đó thực sự đã vi phạm pháp luật. Nếu không chứng minh được là vi phạm hành chính thì không xử phạt được, nếu vi phạm thì phải chứng minh. Chỉ khi đó, những người có thẩm quyền mới có thể biết phải trừng phạt ai và làm thế nào để tránh sai lầm. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng đôi khi vẫn không có đủ thông tin cần thiết, hoặc thông tin họ có không rõ ràng, không chính xác dẫn đến kết luận sai và quyết định xử phạt sai. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xử phạt, pháp luật 2012 quy định nguyên tắc người, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ trong các quy định về trách nhiệm giải trình khi vi phạm hành chính.

3.6 Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với đơn vị gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Đây cũng là một nguyên tắc mới được đưa ra trong luật năm 2012, theo đó các tổ chức vi phạm sẽ bị phạt gấp đôi so với người lớn trong cùng một trường hợp. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong tất cả các nghị định quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể.

4. Đối tượng vi phạm hành chính

Theo quy định tại Điều 5, đối tượng bị trừng phạt bao gồm:

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về hành vi cố ý vi phạm hành chính, mọi người trên 16 tuổi đều bị xử phạt hành chính.

+ Quân đội nhân dân, công an nhân dân vi phạm pháp luật hành chính thì bị xử lý như công dân khác, nếu cần thì tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động quốc phòng, an ninh. hoạt động trong thời hạn thì người xử phạt có đơn yêu cầu cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân, cơ quan công an có thẩm quyền thực hiện, cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý;

– Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính gây ra;

– Vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức nước ngoài trong lãnh thổ, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu thuyền treo cờ Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện. của Việt Nam là một bên, Các biện pháp xử phạt hành chính sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Có những quy định khác nhau.

5. Việc xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng còn phức tạp

Hành vi “tổ chức xây dựng công trình trên đất trồng lúa khi chưa được ủy quyền”

Hoàn cảnh: Cá nhân tổ chức xây dựng trên ruộng lúa khi chưa có giấy phép xây dựng. Trong tình huống này, người giám sát sẽ làm gì?

Hiện tại, có hai quan điểm khác nhau:

Góc nhìn 1: Giám thị sẽ bị lập biên bản và phạt cả hai lỗi vi phạm. Hành vi vi phạm thứ nhất là “sử dụng vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại điểm a và d Điều 57 khoản 1 Luật Đất đai năm 2013” và Điều 9 Nghị định số 9 “sử dụng đất trồng lúa vào việc khác. mục đích sử dụng ”. 91/2019 / NĐ-CP Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (Nghị định số 91). Vi phạm thứ hai là “Tổ chức thi công công trình khi chưa có giấy phép xây dựng nhưng phải có giấy phép xây dựng” (Điều 15 Nghị định số 139).

Ý kiến ​​2: Người có thẩm quyền chỉ lập biên bản và xử phạt hành vi “sử dụng ruộng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại điểm a và điểm d” Điều 57 khoản 1 Luật Đất đai ” (Số 91). Điều 9 của Đạo luật).

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, cho rằng trong những trường hợp nêu trên, người có thẩm quyền chỉ nên xử phạt hành vi “cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được sử dụng ruộng vào mục đích khác theo quy định của pháp luật”. d) Khoản 1 Điều 57 Luật Đất đai không xử phạt chung về hành vi “không có giấy phép xây dựng nhưng phải có giấy phép xây dựng để tổ chức xây dựng công trình theo quy định”.

Theo Điều 9 của Nghị định số 91, “việc sử dụng ruộng vào mục đích khác mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 57 khoản 1 điểm a và d của Luật Đất đai” là VPHC. Các hành vi vi phạm cụ thể là: i) chuyển đất trồng lúa sang trồng cây lâu năm, trồng rừng; ii) chuyển đất trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản, làm muối; iii) chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp ở nông thôn; iv) chuyển đổi ruộng lúa ở đô thị sang đất phi nông nghiệp.

Theo quy định của Luật đất đai 2013, đất đai được chia thành nhiều loại. Việc phân hạng đất đai có vai trò rất quan trọng vì nó là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước về đất đai đưa ra những quy định hợp lý đối với từng chủ thể quyền sử dụng đất. Do mỗi loại đất có cơ chế pháp lý riêng quy định đối tượng giao đất, mục đích sử dụng đất, thời điểm sử dụng, hạn mức giao đất nên cần phải phân loại trước khi áp dụng. quy định cụ thể của pháp luật. Ngoài ra, việc phân hạng đất còn là cơ sở để người có quyền sử dụng đất sử dụng hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Điều 57 Luật Đất đai 2013 quy định, việc chuyển mục đích sử dụng đất phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, với điều kiện người sử dụng đất đã thực sự hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý nhất định thì việc chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản, làm muối hoặc chuyển đất trồng lúa thuộc nhóm đất nông nghiệp sang đất phi đất nông nghiệp, bao gồm cả nghĩa vụ tài chính. Để hướng dẫn điều này, Nghị định số 01/2017 / NĐ-CP đã quy định chi tiết về thủ tục và thẩm quyền xem xét cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang các loại đất khác. Trồng rừng, trồng rừng, chăn nuôi, làm muối, đất phi nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hóa linh hoạt, đổi mới, thích ứng với định hướng thị trường. đồng thời đảm bảo an ninh lương thực lâu dài. Hành vi “tổ chức xây dựng công trình trên ruộng lúa mà không có giấy phép xây dựng” là sử dụng ruộng lúa vào mục đích khác mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia. Nói cách khác, đó là việc chuyển đổi ruộng lúa sang đất phi nông nghiệp, làm ruộng lúa bị thoái hóa hoặc mất điều kiện thích hợp để trồng lúa trở lại, mà cụ thể là ảnh hưởng đến an ninh lương thực.

Theo quy định tại Mục 89 Luật Xây dựng, công trình xây dựng phải có giấy phép xây dựng. Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định về các trường hợp miễn giấy phép xây dựng, chẳng hạn như các công trình xây dựng cấp bốn, nhà ở riêng lẻ dưới tầng 07 tại các khu vực nông thôn, khu vực chưa có quy hoạch đô thị.

Vì vậy, đối với hành vi tổ chức thi công trên ruộng khi chưa có giấy phép xây dựng thì theo Điều 9 Nghị định số 9 chỉ xử phạt một hành vi, không xử phạt. Do được phép xây dựng công trình, nhà ở độc lập tại nông thôn nên hành vi “tổ chức xây dựng không có giấy phép xây dựng và phải xin phép xây dựng theo quy định” được miễn giấy phép xây dựng. Vấn đề phức tạp hơn nữa là hành vi tổ chức xây dựng công trình trên đất trồng lúa không có giấy phép xây dựng nhưng trong đô thị, vì để tổ chức thi công công trình nhà ở riêng lẻ tại đô thị phải có giấy phép xây dựng. Tuy nhiên, cần lưu ý là ngay cả khi xử phạt hành vi “tổ chức thi công công trình không có giấy phép xây dựng trên ruộng lúa nhưng ruộng lúa lại thuộc khu vực đô thị” thì giám thị cũng không xử phạt theo quy định tại Điều 15. Nghị định số 139 là “Tổ chức xây dựng công trình không có giấy phép xây dựng nhưng phải có giấy phép xây dựng” vì các lý do sau:

Trước hết, như đã nói ở trên, “tổ chức thực hiện công trình khi chưa có giấy phép xây dựng và theo quy định phải có giấy phép xây dựng” là hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực xây dựng, cụ thể: vi phạm trật tự xây dựng. “Tổ chức thi công trên ruộng lúa chưa có giấy phép xây dựng nhưng ruộng lúa nằm trong khu đô thị” tuy có biểu hiện là hành vi tổ chức thi công nhưng đối tượng đã vi phạm. Trường hợp này không thuộc phạm vi quản lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng theo đơn đặt hàng. Rõ ràng, trong trường hợp này, đối tượng xin cấp phép xây dựng công trình, nhà ở liên kế trong khu đô thị sẽ không được cấp vì đây là đất trồng lúa – loại đất không thể sử dụng vào mục đích xây dựng sau này. Do đó, khách thể vi phạm trong trường hợp này là trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai chứ không phải lĩnh vực xây dựng. Vì vậy, theo Điều 15 Nghị định 139, hành vi “tổ chức thi công công trình trên ruộng lúa nhưng ruộng lúa lại nằm trong đô thị” là hoàn toàn sai, vì không phù hợp với đối tượng được bảo vệ.

Thứ hai, ngoài việc miễn giấy phép xây dựng, “Luật Xây dựng” quy định tổ chức thi công xây dựng công trình phải có giấy phép xây dựng. Người quyết định đầu tư và chủ đầu tư có nghĩa vụ xin giấy phép xây dựng. Do đó, người quyết định đầu tư, chủ đầu tư vi phạm các quy định trên sẽ bị xử phạt về tội “không xin phép xây dựng nhưng tổ chức thi công theo quy định”. Có nghĩa là, trong trường hợp người quyết định đầu tư, chủ đầu tư hoàn toàn nhận thức được khu đất được phép xây dựng và phải có giấy phép xây dựng, không cần phải xin phép chấp thuận như đã nêu ở trên. … Điều 15, khoản 5, Nghị định số 139 là rất hợp lý khi xử phạt hành vi “tổ chức thi công công trình không có giấy phép xây dựng nhưng theo quy định phải có giấy phép xây dựng”. “Quy định phải xin giấy phép xây dựng” tức là trước khi xây dựng phải có giấy phép xây dựng nhưng người quyết định đầu tư và chủ đầu tư chưa thực hiện nghĩa vụ này, nếu đất ở đô thị thì không thể xin phép xây dựng vì đã canh tác. đất không được phép trồng lúa là loại đất không được sử dụng vào mục đích xây dựng nên đối với trường hợp này, theo Điều 57, khoản 1, điểm d của Luật Đất đai Quy định về điểm, mức xử phạt. về việc “sử dụng ruộng vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” là đúng với nội dung và tính chất của hành vi vi phạm.

Thứ ba là “tổ chức xây dựng công trình không có giấy phép xây dựng trên ruộng lúa, nhưng ruộng lúa nằm trong đô thị” và đối tượng bảo vệ vi phạm là trật tự quản lý đất đai quốc gia. Do đó, các biện pháp trừng phạt phải nhằm bảo vệ đối tượng bị vi phạm. Loại hành vi này không vi phạm đối tượng bảo vệ của trật tự quản lý trong lĩnh vực xây dựng. Do đó, việc xử phạt hành vi “tổ chức xây dựng khi chưa có giấy phép xây dựng, phải xin phép xây dựng theo quy định” là sai, vi phạm nguyên tắc xử phạt “vi phạm hành chính một lần”.

Ngoài ra, việc xử phạt vi phạm chỉ được áp dụng theo quy định tại Điều 9 Lệnh số 91 với mức độ nghiêm túc, nhanh chóng, kịp thời trong việc xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, người giám sát khi phát hiện hành vi thì chỉ cần lập biên bản và ra quyết định xử phạt hành chính trong thời hạn pháp luật quy định, không cần quan tâm đến các nội dung khác. Đồng thời, nếu xử phạt thêm đối với hành vi “không có giấy phép xây dựng, tổ chức thi công theo quy định, phải xin phép xây dựng” thì phải để người vi phạm xử lý, đồng thời tiếp tục kiến ​​nghị cơ quan có thẩm quyền. để cấp “giấy phép xây dựng”. Giấy phép xây dựng được cấp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Nếu quá thời hạn nêu trên mà không trình cơ quan cấp giấy phép xây dựng thì bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc dỡ bỏ công trình, bộ phận công trình vi phạm”. ] .Quy định trên mang tính chất “chữa cháy”, mục đích là hạn chế lãng phí nguồn lực xã hội, tạo điều kiện cho người vi phạm có cơ hội “sửa sai”. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng đối với đất xây dựng chưa xin phép xây dựng. Không có điều kiện xin giấy phép xây dựng tại khu vực trồng lúa. Do đó, việc chủ thể làm thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng do cơ quan có thẩm quyền cấp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ là không khả thi. Điều này vô hình trung kéo dài thời gian xử phạt và dẫn đến công tác xử phạt bị đình trệ.

Có ý kiến ​​cho rằng nếu xử phạt theo Điều 9 Lệnh số 91 thì quản đốc chỉ được áp dụng biện pháp “bắt buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm” chứ không thể áp dụng biện pháp “cưỡng chế phá dỡ. “. Công trình, bộ phận công trình xây dựng vi phạm “. Đồng thời, đối với hành vi” tổ chức thi công xây dựng công trình trên ruộng lúa mà không có giấy phép xây dựng “thì áp dụng biện pháp” cưỡng chế phá dỡ phần công trình, phần công trình trái phép “, ruộng lúa được trả lại nguyên trạng như trước khi vi phạm, đây cũng là việc nhiều đối tượng bị xử phạt về hành vi trái pháp luật nêu trên được thực hiện theo quy định “tổ chức xây dựng không phép. giấy phép, và phải có giấy phép xây dựng theo quy định ”.

Chúng tôi cho rằng “bắt buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu” là biện pháp khắc phục hậu quả mà chủ thể vi phạm pháp luật hành chính thực hiện nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Do đó, đối với hành vi “tổ chức xây dựng công trình không có giấy phép xây dựng tại khu đất trồng lúa trong khu đô thị” thì áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là “bắt buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu” là khôi phục lại tình trạng ban đầu của đối tượng nạn nhân. Đó là trước khi vi phạm hành chính Tình trạng ban đầu trước khi vi phạm là ruộng lúa nên “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu”, kể cả trường hợp đất được khôi phục lại tình trạng ban đầu là trồng lúa. Sau khi khôi phục lại trạng thái trồng lúa ban đầu, tất nhiên sẽ không có bất kỳ công trình xây dựng nào. Do đó, việc áp dụng biện pháp “bắt buộc phải cải tạo” cũng có thể khôi phục lại tình trạng mà hành vi trái pháp luật đã gây ra, làm thay đổi, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.

Vì vậy, đối với hành vi “tổ chức thi công công trình trên ruộng lúa khi chưa được phép xây dựng”, chúng tôi cho rằng người giám sát chỉ “sử dụng ruộng lúa vào mục đích khác” theo quy định tại Điều 9 Lệnh số 9. Khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại điểm a và điểm d Điều 57 khoản 1 Luật Đất đai ”. Hành vi trên không vi phạm các quy định về trật tự xây dựng và không thể được tổ chức với hành vi“ tổ chức thi công xây dựng không nhưng phải có giấy phép xây dựng nhưng phải có giấy phép xây dựng. ”Đồng thời bị xử phạt theo Nghị định số 139 số 15. Cho rằng hành vi nêu trên được thực hiện trên đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. đất, đất rừng sản xuất, đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất nông nghiệp nếu đất nông nghiệp không phải là đất phòng hộ, đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp không phải là đất nông nghiệp Đất rừng đặc dụng, đất nông nghiệp, đất rừng phi sản xuất … bị giám thị xử phạt theo quy định tương ứng của Nghị định số 91. Cần quán triệt hành vi “tổ chức thi công khi chưa có giấy phép xây dựng, nhưng phải có giấy phép xây dựng theo quy định” thì mới xử phạt không đúng nguyên tắc. , bởi vì như đã đề cập trước đó, hành vi đó không vi phạm các quy định của pháp luật, quy định của trật tự xây dựng.

“Nội dung giấy phép xây dựng sai, tổ chức xây dựng công trình không phép khi chưa có giấy phép xây dựng đã bị liệt vào hành vi vi phạm hành chính, chưa có quyết định xử lý mà tiếp tục vi phạm”.

Hoàn cảnh: Cá nhân tổ chức hoạt động xây dựng sai nội dung giấy phép xây dựng khi chưa được phép xây dựng. Hành vi đã được lập biên bản xử lý hành chính, nhưng chưa có quyết định kỷ luật. Sau đó, đối tượng tiếp tục vi phạm. Trong tình huống này, người giám sát sẽ làm gì?

Hiện tại, có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này:

Quan điểm thứ nhất: nếu người có trách nhiệm đã lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt mà đối tượng vẫn tiếp tục vi phạm thì người xử phạt phải có biện pháp ngăn chặn, bảo vệ để đảm bảo vi phạm hành chính được xử lý đúng pháp luật. Dừng vi phạm. Khi ra quyết định xử phạt, người có năng lực xử phạt có thể áp dụng tình tiết tăng nặng bổ sung là “tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính kể cả khi bị quản đốc yêu cầu dừng vi phạm hành chính” và xử phạt bằng biên bản. . Đã có quyết định xử phạt nhưng chưa ban hành (Điều 6, Điều 3 Nghị định số 81/2013 / NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017 / NĐ-CP)

Quan điểm 2: Nếu người phụ trách đã lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt, đối tượng tiếp tục vi phạm thì người phụ trách tiếp tục lập biên bản và xử phạt theo quy định. Điều 15, khoản 8, của Nghị định số 139. Do đó, trong trường hợp này, giám thị sẽ xử phạt cả hai hành vi. Hành vi thứ nhất là “Tổ chức thi công công trình sai nội dung trong giấy phép xây dựng khi chưa có giấy phép xây dựng”, tương ứng với Điều 15, mục 2, 4, 5 Nghị định số 139. Hành vi thứ hai là hành vi “tiếp tục” vi phạm đã được lập biên bản nhưng không có quyết định xử phạt “là một hành vi vi phạm độc lập và bị xử lý theo quy định tại Điều 15 (8) của Nghị định số 139.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai và cho rằng trong trường hợp trên, giám thị sẽ xử phạt hai loại vi phạm: i) Tổ chức thi công công trình sai nội dung giấy phép xây dựng, không có giấy phép xây dựng; ii) Tiếp tục vi phạm sau khi biên bản họp xong nhưng không ban hành quyết định xử phạt nào.

Điều 3 khoản 1 điểm d của “Luật xử lý vi phạm hành chính” quy định “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị phạt nặng”. Do đó, nếu đối tượng bị lập biên bản về hành vi “sai nội dung giấy phép xây dựng, tổ chức thi công khi chưa có giấy phép xây dựng” thì hành vi đã cấu thành vi phạm hành chính. Việc tiếp tục thực hiện hành vi (kể cả khi chưa có quyết định xử phạt, xử phạt) vẫn cấu thành hành vi vi phạm mới.

Về mặt lý thuyết, cơ quan hành chính được cấu thành bởi 4 yếu tố: khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể. Do đó, hành vi của các chủ thể xảy ra đồng thời, yếu tố lỗi là như nhau nhưng khách thể xâm phạm chắc chắn khác nhau. Vì đối tượng của quy phạm pháp luật hành chính bị vi phạm là khác nhau nên sẽ cấu thành một hành vi pháp lý độc lập. Ngược lại, hành vi trái pháp luật có cùng yếu tố lỗi nhưng ở những thời điểm khác nhau cũng cấu thành hành vi trái pháp luật hành chính độc lập. Vì vậy, khi xử phạt phải xử phạt từng hành vi cụ thể chứ không thể xử phạt hành chính với các tình tiết tăng nặng như “kể cả khi người quản lý yêu cầu dừng việc thực hiện hành vi trái pháp luật mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật”.

Hiện nay, nếu tổ chức xây dựng sai phép, không có giấy phép xây dựng thì pháp luật cho phép người vi phạm bị xử lý theo thủ tục trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày lập biên bản sau khi lập bản tóm tắt vi phạm hành chính. Cơ quan có thẩm quyền buộc phải điều chỉnh hoặc cấp giấy phép xây dựng. Vì vậy, trong thời hạn này, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật phải chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Trường hợp đơn vị, cá nhân vi phạm được cấp có thẩm quyền điều chỉnh hoặc cấp giấy phép xây dựng thì người có thẩm quyền chỉ áp dụng hình thức xử phạt, không áp dụng “cưỡng chế phá dỡ công trình, bộ phận công trình vi phạm”. những quy định”. Ngược lại, nếu hành vi trái pháp luật của tổ chức, cá nhân chưa được cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, cấp giấy phép xây dựng thì người có thẩm quyền sẽ đồng thời có biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả. Do đó, dù có áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm hoặc một số hành vi xây dựng công trình trái phép” thì hành vi trên vẫn cấu thành vi phạm hành chính độc lập và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc “vi phạm hành chính chỉ được lập biên bản một lần, xử phạt một lần”. Vì vậy, nếu “tiếp tục tổ chức thi công công trình sai nội dung giấy phép xây dựng, sau khi có biên bản họp mà chưa có quyết định xử phạt thì chưa có giấy phép xây dựng” là vi phạm độc lập. Trong trường hợp này, người có trách nhiệm lập biên bản “tiếp tục tổ chức thi công công trình vi phạm nội dung giấy phép xây dựng, không xin phép xây dựng sau khi có biên bản họp nhưng chưa ra quyết định”. “Quyết định trừng phạt” và các biện pháp trừng phạt theo Điều 15, khoản 8, của Nghị định số 139.

“Có phải tình tiết tăng nặng xử phạt” tiếp tục tổ chức thi công xây dựng công trình sai nội dung giấy phép xây dựng, không có giấy phép xây dựng nhưng sau khi lập biên bản không ra quyết định xử phạt “?”, Dù giám thị yêu cầu. dừng hành vi, tiếp tục Cưỡng chế vi phạm hành chính ”?

Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng cần phân biệt tiêu chuẩn “tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật ngay cả khi người quản lý yêu cầu dừng hành vi” là điều kiện cấu thành hành vi trái pháp luật. 1. Khoản 1 Điều 10 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Hiện nay, tiêu chí đưa ra tại Nghị định số 139 là “tiếp tục tổ chức thi công công trình vi phạm nội dung giấy phép xây dựng, không có giấy phép xây dựng sau khi đã có biên bản cuộc họp nhưng chưa có quyết định xử phạt”. là điều kiện để áp dụng các biện pháp trừng phạt. Điều 15, khoản 8. Vì vậy, tiêu chí “tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính ngay cả khi người có thẩm quyền yêu cầu chấm dứt hành vi đó” sẽ chỉ là điều kiện để áp dụng các hình phạt quy định tại Điều 15 Khoản 8 và không được áp dụng theo quy định của pháp luật. Điều 15. Điểm đầu tiên của khoản đầu tiên của Điều 10 xác định mục đích của các tình tiết tăng nặng. Nói cách khác, nếu áp dụng điều kiện xử phạt quy định tại Điều 15 Khoản 8 là “vi phạm hành chính vẫn tiếp tục được thực hiện ngay cả khi người quản lý yêu cầu dừng hành vi” thì không thể xem xét các tình tiết tương tự như tình tiết tăng nặng. Trong trường hợp này, người có trách nhiệm sẽ áp dụng hình thức phạt tiền phù hợp với tình tiết thông thường (nếu không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì mức phạt tiền ở mức trung bình) theo quy định tại Điều 10 Khoản 2 Luật Hành chính. Luật Xử lý.

Trên khuôn khổ bài viết Vi phạm hành chính là gì? thế nào là Vi phạm pháp luật hành chính, chúng tôi hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Chúc bạn bình an!

 

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button